Tính đến thời điểm hiện tại, khái niệm tài sản bảo đảm chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào của nước ta. Cách hiểu về tài sản bản đảm chỉ được đúc rút từ những quy định về biện pháp bảo đảm nói chung.
Dưới góc độ nghiên cứu lý luận, việc xây dựng một khái biện về tài sản bảo đảm là cần thiết để hoàn thiện hơn nữa hệ thống các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm. Khái niệm tài sản bảo đảm được tìm hiểu với các cách tiếp cận khác nhau:
Thứ nhất, khái niệm tài sản bảo đảm được tiếp cận dưới góc độ là đối tượng của hợp đồng bảo đảm. Đối tượng của hợp đồng bảo đảm là tài sản bảo đảm, chứ không phải quyền sở hữu tài sản bảo đảm cũng như không phải giá trị của tài sản bảo đảm. Bởi chỉ có tài sản bảo đảm mới đáp ứng được điều kiện cơ bản của đối tượng hợp đồng là tài sản và có tính cụ thể, tính xác định, có thể chuyên giao lưu trong các giao lưu dân sự.
Thứ hai, tài sản bảo đảm được tiếp cận dưới góc độ là phương tiện (lượng vật chất) để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận bảo đảm. Nếu quyền trên tài sản bảo đảm được đăng ký - sẽ là cở sở để bên nhận bảo đảm tuyên bố công khai quyền của mình trên tài sản. Khi cần bảo đảm cho quyền lợi của mình, bên nhận bảo đảm có thể thực hiện quyền truy đồi đối với số tài sản và năm giữ vị trí ưu tiên trước các chủ thể khác khi thanh toán từ số tiền thu được do xử lý tài sản bảo đảm.
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy tài sản bảo đảm trước hết phải là đối tượng của hợp đồng bảo đảm bởi hợp đồng bảo đảm là hình thức ghi nhận sự thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn tài sản bảo đảm. Nhưng để bên nhận bảo đảm có đầy đủ các quyền năng trên tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải đăng ký công bố quyền tài sản.