
Khóa luận tốt nghiệp: Hệ từ "nhất, độc, cô, vô, phi, bất" trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Tài liệu tham khảo văn học)
Tác Giả
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA NGỮ VĂN
PHẠM TUẤN VŨ
HỆ TỪ
NHẤT-ĐỘC-CÔ, VÔ-PHI-BẤT
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Chuyên ngành : Ngữ văn Hán Nôm
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học
ThS-GV. VÕ MINH HẢI
Bình Định, 05/2013
DANH MỤC VIẾT TẮT
TT |
Chữ viết tắt |
Nội dung |
01 |
H |
Hà Nội |
02 |
NXB |
Nhà xuất bản |
03 |
T/c |
Tạp chí |
04 |
Tp. |
Thành phố |
05 |
Thanh Hiên |
Thanh Hiên tiền hậu tập 軒清前後集 (còn gọi là Thanh Hiên thi tập 軒清詩集) |
06 |
Bắc hành |
Bắc hành tạp lục 北行雜錄 |
07 |
Nam trung |
Nam trung tạp ngâm 南中雜吟 |
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT |
Bảng |
Tên bảng |
Trang |
01 |
Bảng 1 |
Thống kê kết quả |
|
02 |
Bảng 2 |
Tỉ lệ bài thơ có hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất |
|
03 |
Bảng 3a |
Sự kết hợp từ loại của từ “nhất” |
|
04 |
Bảng 3b |
Sự kết hợp từ loại của từ “độc” |
|
05 |
Bảng 3c |
Sự kết hợp từ loại của từ “cô” |
|
06 |
Bảng 3d |
Sự kết hợp từ loại của từ “vô” |
|
07 |
Bảng 3e |
Sự kết hợp từ loại của từ “phi” |
|
08 |
Bảng 3f |
Sự kết hợp từ loại của từ “bất” |
|
09 |
Bảng 3g |
Bảng tổng kết |
|
DANH MỤC PHỤ LỤC
TT |
Tên gọi |
Tên bảng |
Trang |
01 |
Phụ lục 1 |
Bảng quy ước viết tắt tên các bài thơ chữ Hán Nguyễn Du
|
|
02 |
Phụ lục 2 |
Bảng thống kê số lần xuất hiệnvà những bài thơ cụ thể có hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất
|
|
MỤC LỤC
Nội dung Trang
MỞ ĐẦU 1
Lí do lựa chọn đề tài 1
Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
Phương pháp nghiên cứu 4
Đóng góp của khóa luận 4
Bố cục của khóa luận 4
NỘI DUNG 5
Chương 1
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
VÀ VẤN ĐỀ HƯ TỪ HÁN VĂN TRONG NGÔN NGỮ THƠ CỔ ĐIỂN
Tình hình sưu tầm và chú giải văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du 5
Tình hình sưu tầm thơ chữ Hán Nguyễn Du 5
Tình hình biên dịch, chú giải văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du 10
Sơ lược đặc điểm thơ chữ Hán Nguyễn Du 12
Đặc điểm về nội dung
Đặc điểm về hình thức nghệ thuật
Hư từ tiếng Hán văn trong thơ cổ điển Trung Hoa và Việt Nam 15
Khái niệm hư từ 15
Hư tự trong tiếng Hán 16
Vấn đề hư từ trong thơ cổ điển
Tiểu kết Chương 1 17
Chương 2
KHẢO SÁT HỆ TỪ NHẤT-ĐỘC-CÔ, VÔ-PHI-BẤT
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Cơ sở và tiêu chí khảo sát 18
Cơ sở khảo sát 18
Cơ sở lịch sử nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du
Cơ sở đặc trưng về tính linh hoạt của từ loại trong Hán ngữ
Cơ sở đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống hư từ trong ngôn ngữ thơ cổ điển và thơ chữ Hán Nguyễn Du
Về hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất
Về chữ NHẤT
Về chữ ĐỘC
Về chữ CÔ
Về chữ VÔ
Về chữ PHI
Về chữ BẤT
Hệ thống tiêu chí khảo sát 19
Kết quả khảo sát 21
Thống kê hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du 21
Bảng 1. Kết quả thống kê
Bảng 2. Tỉ lệ bài thơ có hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất
2.2.2. Thống kê khả năng kết hợp từ loại của hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất
Bảng 3a. Sự kết hợp từ loại của từ “nhất”
Bảng 3b. Sự kết hợp từ loại của từ “độct”
Bảng 3c. Sự kết hợp từ loại của từ “côt”
Bảng 3d. Sự kết hợp từ loại của từ “vô”
Bảng 3e. Sự kết hợp từ loại của từ “phit”
Bảng 3f. Sự kết hợp từ loại của từ “bất”
Bảng 3g. Bảng tổng kết
Một số nhận xét 25
Tiểu kết Chương 2 29
Chương 3. GIÁ TRỊ NHÂN VĂN VÀ THẨM MỸ CỦA HỆ TỪ NHẤT ĐỘC CÔ, VÔ PHI BẤT TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Thể hiện tư tưởng nhân văn thời đại 30
Sự tiếp nối văn mạch “Hồng sơn văn phái” 30
Sự tiếp nối văn mạch “Hồng sơn văn phái” 31
Thể hiện quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của Nguyễn Du 34
Sự khái quát hoá về hiện thực và thái độ xã hội của nhà thơ 34
Những số phận bất hạnh, lầm than và thái độ cảm thông, thương xót
Thời đại nhiều biến động và thái độ hồ nghi, mất niềm tin
Hiện thực bất công, ngang trái và thái độ phủ nhận thực tại
Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về cái tôi trữ tình 34
Hình ảnh cái tôi lẻ loi của người lữ hành cô độc
Hình ảnh cái tôi đa sầu của lữ khách tha hương
Hình ảnh cái tôi nhân văn của nỗi đau nhân thế
Thể hiện đặc trưng quy phạm nghệ thuật trong thơ chữ Hán
Kết cấu mạch lạc và đăng đối
Hình ảnh, nhịp điệu
Tiểu kết Chương 3 39
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời, Nguyễn Du 阮攸 từng băn khoăn “不 知 三 百 餘 年 後 天 下 何 人 泣 素 如 Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa / thiên hạ ai người khóc Tố Như). Đó là nỗi ưu tư của con người ưu thời mẫn thế với những “ai tri âm đó” với ông đời sau. Nhưng chỉ mới chưa đầy hai trăm năm sau khi ông mất, đã có biết bao người “khóc” cùng Tố Như, “khóc” cho Tố Như. Đã có hàng nghìn công trình, tác phẩm thơ văn viết về Nguyễn Du cùng những sáng tác vĩ đại mà ông để lại. Một trong số những kỷ lục của Nguyễn Du, ông là tác gia được nghiên cứu, phê bình, học tập nhiều nhất với số lượng trang viết kỷ lục chưa một tác giả nào khác đạt được trong lịch sử văn học Việt Nam. Với những gì đã làm, Nguyễn Du xứng đáng ở địa vị đại thi hào dân tộc, là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước ta, nhà thơ xuất sắc của nhân loại.
Về trước tác, Nguyễn Du để lại một truyện thơ Nôm, một bài văn tế và hai tác phẩm viết ở thời trai trẻ bằng chữ Nôm và ba tập thơ chữ Hán. Số lượng trang viết không nhiều nhưng địa vị của ông trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc là không thể thay thế. Nếu Truyện Kiều 傳翹 là thành tựu vĩ đại của thơ ca quốc âm dân tộc thì 249 bài thơ chữ Hán cũng là những sáng tác xuất sắc của nền thơ chữ Hán nước ta. Ba tập thơ chữ Hán “là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa” [5, 120] mà ở đó, thế giới nghệ thuật thơ Thanh Hiên 清軒 vô cùng giàu đẹp, sâu thẳm bao la, là mảnh đất văn chương màu mỡ để bao người tìm đến thưởng thức, học tập, nghiên cứu. Ba tập thơ trải dài theo cuộc đời nhà thơ, phản ánh đầy đủ, chân thực thế giới sâu thẳm trong tâm hồn thi nhân ở nhiều chặng đường khác nhau. Về hình thức nghệ thuật, ba tập Thanh Hiên tiền hậu tập 清軒前後集 còn gọi là Thanh Hiên thi tập 清軒詩集), Nam trung tạp ngâm 南中雜吟, Bắc hành tạp lục 北行雜錄 đã đạt đến trình độ cổ điển, mẫu mực, là những viên ngọc toàn bích của thơ ca chữ Hán nước ta trên nhiều phương diện, trong đó có phương diện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thơ chữ Hán Nguyễn Du nhìn chung đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong đó có việc sử dụng linh hoạt, hiệu quả hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất. Hư từ Hán văn nói chung và hệ từ Nhất 一 - Độc 獨 - Cô 孤, Vô 無 - Phi 非 - Bất 不 này vốn rất hạn chế trong thơ chữ Hán, nhất là trong thơ Đường luật. Bởi một trong những đặc trưng thi pháp thơ luật Đường là tính hàm súc cao độ, hạn chế đến mức tối đa hư từ để có những quan hệ rời rạc, tạo khoảng trống cho hiện tượng ý tại ngôn ngoại 意在言外, ngôn tận ý bất tận 言盡意不盡 xuất hiện. Vậy mà trong thơ chữ Hán của Thanh Hiên, hư từ và các tiểu loại từ khác, nhất là hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất được sử dung với tần số rất cao, đem lại nhiều giá trị độc đáo. Xét ở một khía cạnh nào đó, đây có thể xem là một trong những biểu hiện cho thiên tài sử dụng ngôn ngữ của Tố Như.
Mặt khác, trong nghiên cứu, dạy học thơ chữ Hán nói chung, thơ chữ Hán Nguyễn Du nói riêng, những khó khăn mà người dạy lẫn người học đều vấp phải là hàng rào ngôn ngữ. Hiểu chữ Hán trong thơ văn đã khó, hiểu hư từ Hán văn lại càng khó hơn bởi đây là lớp từ rất linh hoạt và phức tạp. Do đó, để công tác nghiên cứu, dạy học thơ văn chữ Hán Thanh Hiên đạt hiệu quả, một trong những công cụ quan trọng, đắc lực mà người nghiên cứu, người dạy và học cần có là một vốn Hán văn tương đối, trong đó không thể không có những hiểu biết cơ bản về hệ thống từ loại này.
Vì vậy, việc khảo sát, thống kê, nhận xét hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du để đi đến những nhận định về giá trị của hệ từ này đối với thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Tố Như, đồng thời góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, dạy học thơ chữ Hán Nguyễn Du, theo chúng tôi, là cấp thiết. Với những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du
Cùng với Truyện Kiều, thơ chữ Hán là đóng góp xuất sắc của Nguyễn Du đối với lịch sử thơ ca dân tộc. 249 bài thơ chữ Hán để lại thật sự là những thành tựu nghệ thuật chuẩn mực, kết tinh của nền thơ ca chữ Hán nước ta. Với vị trí quan trọng như vậy, thơ chữ Hán Thanh Hiên được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với nhiều hướng tiếp cận, khai thác khác nhau. Trong gần một thế kỷ qua, đã có nhiều công trình, chuyên luận giá trị về thơ chữ Hán ra đời. Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu như sau :
Trong công trình Văn học Việt (nửa cuối thế kỷ XVIII-hết thế kỷ XIX), GS. Nguyễn Lộc đã dành hẳn một chương (chương 7) viết về Nguyễn Du và thơ chữ Hán của ông. Với 36 trang dày dặn, chương 7 của công trình đã có những cái nhìn toàn diện, sâu sắc về giá trị thơ chữ Hán Nguyễn Du trong việc phán ánh một cách sâu sắc, đầy đủ thế giới sâu thẳm trong tâm hồn thi nhân để từ đó đi tới một nhận định hết sức quan trọng : “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du với Truyện Kiều là một. Có khác chăng là Truyện Kiều giống như một dòng sông lớn, còn thơ chữ Hán của Nguyễn Du lại là những con suối nhỏ, nhưng tất cả đều đổ vào đại dương mênh mông của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ” [13; 333]. Đây là một trong những công trình nghiêm túc, giá trị về thơ chữ Hán cụ Nguyễn. Tiếc rằng, phương diện nghệ thuật biểu hiện trong đó có ngôn ngữ thơ lại chưa được tác giả chú ý khai thác đúng mức.
Cuốn sách tập hợp được nhiều công trình, bài viết có giá trị khoa học về thơ chữ Hán Nguyễn Du là cuốn Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm. Trong công trình này, người giới thiệu đã tuyển chọn 07 bài viết về thơ chữ Hán Nguyễn Du của những nhà nghiên cứu uy tín trong nước cùng với 02 bài về Văn tế thập loại chúng sinh để xếp thành một phần riêng với tên gọi chung là “Chân dung Nguyễn Du qua thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn”. Nhìn chung, trong 07 bài viết này, các tác giả đã tập trung giải quyết ổn thỏa và thuyết phục những vấn đề lớn của thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Tố Như như “tâm tình của Nguyễn Du”, “con người Nguyễn Du”, “tâm sự Nguyễn Du”, “Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông”… Ngôn ngữ thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng được các tác giả chú ý khai thác. Đây là công trình có giá trị nhiều mặt, được chúng tôi sử dụng thường xuyên trong quá trình thực hiện đề tài.
Trong công trình 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả Duy Phi đã có những lời “cùng bạn đọc” tuy ngắn gọn chỉ với 02 trang nhưng người dịch đã có những nhận định xác đáng về thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tác giả viết : “Đọc thơ chữ Hán, ta hiểu thêm sự uyên bác của Nguyễn Du về cuộc sống, con người, lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Xưa, thơ đi sứ thường là loại thơ thù tạc, xã giao. Nguyễn Du khác vậy, chỉ để lại những bài thơ chân thực nhiều suy ngẫm thế sự. Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, ta càng thấy rõ giá trị nhân văn, tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc của một trái tim lớn” [19; 6].
Ở luận văn Cái tôi trữ tình trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Đỗ Phủ từ góc nhìn so sánh, ThS. Lê Tấn Thích đã nêu ra, kiến giải được những biểu hiện tương đồng và dị biệt trong cái tôi trữ tình của hai nhà thơ vĩ đại trên cả hai phương diện nội dung và hình thức biểu hiện. Những vấn đề đặt ra được tác gải cố gắng giải quyết một cách thỏa đáng trên cái nhìn so sánh tương đối toàn diện, sâu sắc. Đây là công trình có những đóng góp mới mẻ, có nhiều gợi ý khoa học cho chúng tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
2.2. Tình hình nghiên cứu hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất xuất hiện trong thơ chữ Hán Nguyễn Du với tần số rất cao, đem lại nhiều giá trị quan trọng. Tuy vậy, hệ từ này vẫn chưa được chú ý nghiên cứu đúng mức mà chỉ được điểm qua hoặc dừng lại ở mức độ nhận diện một phần, ban đầu kiến giải.
Tiêu biểu cho việc nghiên cứu về hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất này là công trình Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du của tác giả Lê Thu Yến. Trong chuyên luận quan trọng này, Lê Thu Yến đã dành 69 trang nghiên cứu về từ ngữ trong các sáng tác bằng chữ Hán của Thanh Hiên trong đó hư từ, nhất là các từ nhất, độc, vô, phi, bất được chú ý tìm hiểu tương đối toàn diện. Tác giả chuyên luận đã khảo sát, thống kê số lần xuất hiện của các từ này để từ đó đưa ra những nhận định sâu sắc về giá trị của chúng đối phản ánh chân thật, sinh động chủ thể trữ tình nhà thơ trong các tác phẩm chữ Hán. Tuy vậy, do phạm vi nghiên cứu quá rộng, hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất vẫn chưa được tập trung tìm hiểu đầy đủ các phương diện để thấy được giá trị độc đáo của chúng đối với nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Chúng tôi kế thừa những kết quả trong chuyên luận này, đồng thời thu hẹp phạm vi nghiên cứu và phát triển vấn đề một cách hệ thống, tập trung hơn. Đây là tài liệu được chúng tôi sử dụng thường xuyên trong quá trình thực hiện khóa luận.
Trong Cái tôi trữ tình trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Đỗ Phủ từ góc nhìn so sánh, tác giả Lê Tấn Thích đã khảo sát, thống kê và so sánh hệ từ nhất-độc-cô trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Đỗ Phủ để đưa đến một số nhận định quan trọng. Đó là : “Với hệ từ “nhất-độc-cô”, Đỗ Phủ và Nguyễn Du cho thấy họ là những thi nhân có tài, có tâm, giàu tình cảm và có ý thức về bản ngã cá nhân nhưng suốt đời đều mang trong mình nỗi buồn lẻ loi, cô độc… Từ đó, “nhất-độc-cô”, trong cảm thức thi ca của mỗi nhà thơ, đều mang tính chất phản tỉnh tự ngẫm, tự suy xét lại nỗi cô độc của bản thân mình” [26; 64]. Tuy còn chưa thật đầy đủ và được giải quyết nhằm mục đích làm nổi bật cái tôi trữ tình trong thơ hai tác giả trên phương diện hình thức nghệ thuật nhưng chúng tôi cho rằng, những số liệu thống kê cùng các nhận định thuyết phục về hệ từ nhất-độc-cô trong thơ chữ Hán Nguyễn Du của người thực hiện là có đóng góp cho việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ chữ Hán Nguyễn Du. Đây là phần gợi ý trực cho chúng tôi trong việc chọn đề tài nghiên cứu.
Nhìn chung, vấn đề “Hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” còn khá mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Đây là lí do để chúng tôi trên cơ sở kế thừa các ý kiến, kết quả nghiên cứu đi trước mạnh dạn lựa chọn đề tài này.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành thống kê số lần xuất hiện của các từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất, tỉ lệ giữa các từ và phân loại chúng theo một số tiêu chí khác nhau để rút ra những nhận xét có tính thuyết phục dựa trên các số liệu đã có về giá trị của hệ từ này.
3.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ học
Với phương pháp này, chúng tôi phân tích ý nghĩa từ nguyên, ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của các từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong ngữ pháp Hán văn để làm tiền đề cho việc nghiên cứu.
Bên cạnh đó, để xây dựng cơ sở cho việc tìm hiểu cũng như kiểm chứng giá trị ngữ học và văn học, chúng tôi tìm hiểu những đặc trị nghệ thuật hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong việc phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, những ngõ ngách trong tâm hồn nhà thơ.
3.3. Phương pháp tổng quan tư liệu
Để có cái nhìn bao quát, toàn diện về vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp này với cách thức sưu tầm, tham khảo, tổng hợp các nguồn tài liệu trên sách báo, tạp chí, các trang mạng. Trên cơ sở tổng quan tư liệu đã có, chúng tôi xác định những vấn đề đã được giải quyết, những vấn đề còn bỏ ngõ để từ đó định hướng cho quá trình nghiên cứu.
3.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
Từ những tài liệu được thu thập, đặc biệt, từ các số liệu thống kê được từ việc khảo sát hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất, chúng tôi tiến hành phân tích, khái quát lại vấn đề để đưa ra các nhận định có tính mới mẻ và thuyết phục. Ở phương pháp này, chúng tôi cũng tiến hành phân tích một số câu thơ, bài thơ tiêu biểu làm dẫn chứng cho những vấn đề cần giải quyết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi tập trung vào đối tượng là hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất, một hệ từ độc đáo, được sử dụng với số lượng lớn và tần số xuất hiện cao, đem lại nhiều giá trị độc đáo, sâu sắc cho thơ chữ Hán Nguyễn Du.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, chúng tôi tiến hành khảo sát 249 bài thơ chữ Hán trong ba tập Thanh Hiên, trung và Bắc hành. Tài liệu chúng tôi dùng chính thức trong công trình này là cuốn 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du của người dịch là tác giả Duy Phi, đồng thời có tham khảo các bản dịch khác.
5. Đóng góp của khóa luận
Trong giới hạn của đề tài cũng như khả năng có hạn của người thực hiện, chúng tôi không tham vọng đạt được những điều to lớn. Tuy vậy, tác giả đề tài vẫn hi vọng có được một số đóng góp sau :
5.1. Thống kê, mô tả đầy đủ, chính xác hệ từ nhất-độc-cô, vô-phi-bất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du để có những nhận định, kết luận có tính thuyết phục về giá trị đặc biệt của hệ từ này trong thế giới nghệ thuật thơ viết bằng chữ Hán của Tố Như. Qua đó, giúp người đọc phần nào thấy được vẻ đẹp ngôn từ, tài năng ngôn ngữ bậc thầy không chỉ trong sử dụng tiếng Việt mà con ở cả tiếng Hán của Thanh Hiên.
5.2. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu học tập cho sinh viên ngành Ngữ văn, Hán Nôm đồng thời tiếp tục gợi mở các hướng nghiên cứu mới cho bản thân trên con đường học tập.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, chính văn của khóa luận được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1. THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG HƯ TỪ HÁN VĂN TRONG NGÔN NGỮ THƠ CỔ ĐIỂN
Chương 2. KHẢO SÁT HỆ TỪ NHẤT-ĐỘC-CÔ, VÔ-PHI-BẤT TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Chương 3. GIÁ TRỊ NHÂN VĂN VÀ THẨM MỸ CỦA HỆ TỪ NHẤT ĐỘC CÔ, VÔ PHI BẤT TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Vui lòng mua gói download để tải toàn bộ tài liệu